Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang ký Quyết định số 389/QĐ-TTg ngày 9/5/2024 phê duyệt Quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Đến năm 2050, Việt Nam trở thành quốc gia có nghề cá phát triển bền vững, hiện đại
Mục tiêu tổng quát đến năm 2030 là bảo vệ, bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản ở các loại hình thủy vực và bảo tồn đa dạng sinh học biển, qua đó góp phần thực hiện mục tiêu của Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22 tháng 10 năm 2018 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về chiến lược phát triển kinh tế biển bền vững của Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045; phát triển khai thác thủy sản bền vững, có trách nhiệm, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế; bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, chủ động phòng, chống thiên tai; góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, an ninh, trật tự và lợi ích quốc gia trên sông, biển Việt Nam.
Để bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, Quy hoạch đặt ra mục tiêu: 27 khu bảo tồn biển sẽ được thành lập và hoạt động có hiệu quả với tổng diện tích các khu vực biển được khoanh vùng bảo tồn khoảng 463.587 ha, chiếm khoảng 0,463% diện tích bề mặt tự nhiên. khu vực. vùng biển quốc gia (vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia). 149 khu vực xa bờ (59 khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, 63 khu vực cấm đánh bắt cá có thời hạn, 27 khu sinh sống nhân tạo cho các loài thủy sản) và 119 khu vực nội địa (66 khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản, 53 khu vực cấm đánh bắt cá trong một thời gian nhất định). giai đoạn) được khoanh vùng để bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ bãi đẻ và không gian thủy sản non nơi các loài thủy sản non sinh sống.
Về khai thác thủy sản, phấn đấu tổng số tàu cá tối đa khoảng 83.600 tàu. Cơ cấu nghề đánh bắt như sau: Nghề lưới kéo chiếm 10,0%; Nghề đánh bắt bằng lưới vây chiếm 6,1%; Công suất sử dụng Gillnet chiếm 40,3%; Đánh bắt cá chiếm 18,9%; Tỷ lệ lấp đầy ròng chiếm 3,0%; Ngành công nghiệp bẫy chiếm 2,9%...
Đến năm 2050, Việt Nam trở thành quốc gia phát triển thủy sản bền vững, hiện đại, ngang tầm các nước có thủy sản phát triển trong khu vực và thế giới; Đa dạng sinh học biển và các vùng nước nội địa được bảo tồn và phát triển; Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; góp phần đảm bảo an sinh xã hội; bảo vệ chủ quyền, an ninh, trật tự và lợi ích quốc gia trên sông, biển Việt Nam.
Tổ chức quản lý hiệu quả các khu bảo tồn biển
Định hướng về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản là: Khôi phục nguồn lợi thủy sản, đặc biệt là các loài thủy sản có giá trị kinh tế, các loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm và các loài thủy sản đặc hữu; Tăng cường công tác quản lý, đánh giá, bảo tồn, bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thủy sản ở các loại thủy vực trong đất liền và ven biển.
Tăng quy mô, diện tích các khu bảo tồn biển và bảo vệ nguồn lợi thủy sản; thành lập các khu bảo tồn biển mới và tổ chức quản lý hiệu quả; gắn bảo tồn với phát triển du lịch sinh thái biển, góp phần bảo vệ, sử dụng bền vững các hệ sinh thái và tài nguyên biển; Bảo vệ khu vực di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh, phát triển kinh tế du lịch biển.
Xác định khu vực cấm khai thác thủy sản có thời hạn là khu vực tập trung thủy sản để sinh sản và khu vực tập trung thủy sản non để sinh sống; Tạo ra các khu sinh cảnh nhân tạo cho các loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm, các loài thủy sản có giá trị kinh tế, khoa học, các loài thủy sản bản địa và các loài thủy sản đặc hữu ở vùng biển.
Chuyển đổi cơ cấu nghề khai thác thủy sản ở các thủy vực vùng nội địa, vùng biển
Định hướng quy hoạch khai thác thủy sản: Giảm dần sản lượng thủy sản khai thác, điều chỉnh tỷ trọng sản lượng khai thác giữa các vùng biển, căn cứ vào trữ lượng nguồn lợi thủy sản; Khai thác có chọn lọc các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao.
Điều chỉnh số lượng tàu cá, chuyển đổi cơ cấu nghề cá ở các vùng nước nội địa và vùng biển phù hợp với khả năng khai thác nguồn lợi thủy sản, đặc biệt giảm tỷ trọng nghề lưới kéo trên biển; Gắn phát triển sinh kế của cộng đồng ngư dân với phát triển nuôi trồng thủy sản, du lịch sinh thái và câu cá giải trí.
Củng cố, đổi mới các tổ, đội, hợp tác xã, công đoàn ngư dân; Tổ chức sản xuất thủy sản theo chuỗi giá trị, chú trọng nâng cao giá trị sản xuất. Đến năm 2030, khoảng 80% tàu cá khai thác thủy sản vùng khơi, xa bờ tham gia chuỗi sản xuất xa bờ.
Tiến Sơn
Theo dõi tiếp các bài viết của chúng tôi tại www.finverse.vn
Comments