top of page

(Part 1)Cuộc Đại suy thoái: Tổng quan, nguyên nhân và ảnh hưởng

Ảnh của tác giả: Uyên NguyễnUyên Nguyễn
Cuộc đại suy thoái, tài chính, kinh tế
Cuộc đại suy thoái, tài chính, kinh tế

Cuộc Đại suy thoái là gì?


Cuộc Đại suy thoái là một cuộc suy thoái kinh tế tàn khốc và kéo dài sau sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Hoa Kỳ năm 1929. Nó kéo dài đến năm 1941, cùng năm Hoa Kỳ bước vào Thế chiến thứ hai.


Giai đoạn này được đánh dấu bằng nhiều đợt suy thoái kinh tế, bao gồm sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1929, các cuộc khủng hoảng ngân hàng xảy ra vào năm 1930 và 1931. Thuế quan Smoot-Hawley đã làm sụp đổ thương mại thế giới. Các sự kiện và chính sách khác đã giúp kéo dài thời kỳ Suy thoái trong những năm 1930.


Các nhà kinh tế và sử học thường coi cuộc Đại suy thoái là sự kiện kinh tế lớn nhất nếu không muốn nói là thảm khốc nhất thế kỷ 20.


Thật khó để xác định chính xác nguyên nhân gây ra cuộc Đại suy thoái nhưng các nhà kinh tế và sử học thường đồng ý rằng có một số yếu tố giảm nhẹ đã dẫn đến thời kỳ suy thoái này. Chúng bao gồm sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1929, bản vị vàng, sự sụt giảm cho vay và thuế quan, hoảng loạn ngân hàng và các chính sách tiền tệ bị thu hẹp của Fed.


BÀI HỌC CHÍNH


  • Cuộc Đại suy thoái là cuộc suy thoái kinh tế lớn nhất và kéo dài nhất trong lịch sử thế giới hiện đại.

  • Cuộc suy thoái kéo dài từ năm 1929 đến năm 1941.

  • Đầu tư vào thị trường đầu cơ vào những năm 1920 đã dẫn đến sự sụp đổ của thị trường chứng khoán vào năm 1929 và điều này đã xóa sạch một lượng lớn tài sản danh nghĩa.

  • Các yếu tố khác cũng góp phần gây ra cuộc Đại suy thoái, bao gồm cả việc không hoạt động và hành động thái quá của Fed.

  • Tổng thống Hoover và Roosevelt đều cố gắng giảm thiểu tác động của cuộc Suy thoái thông qua các chính sách của chính phủ.


Sự sụp đổ của thị trường chứng khoán


Thị trường chứng khoán Hoa Kỳ giảm gần 50% và lợi nhuận doanh nghiệp giảm hơn 90% trong thời kỳ suy thoái ngắn được gọi là Cuộc suy thoái bị lãng quên kéo dài từ năm 1920 đến năm 1921. Nền kinh tế Hoa Kỳ đạt mức tăng trưởng mạnh mẽ trong suốt phần còn lại của thập kỷ. Công chúng Mỹ đã khám phá ra thị trường chứng khoán và lao đầu vào thời kỳ Roaring Twenties.


Những cơn sốt đầu cơ điên cuồng đã ảnh hưởng đến cả thị trường bất động sản và Sở giao dịch chứng khoán New York (NYSE). Nguồn cung tiền lỏng lẻo và mức độ  giao dịch ký quỹ cao  của các nhà đầu tư đã giúp thúc đẩy giá tài sản tăng chưa từng có.


Khoảng thời gian trước tháng 10 năm 1929 chứng kiến ​​giá cổ phiếu tăng lên bội số cao nhất mọi thời đại gấp hơn 19 lần thu nhập doanh nghiệp sau thuế.3Cùng với việc chỉ số công nghiệp Dow Jones (DJIA) chuẩn tăng 500% chỉ sau 5 năm, điều này cuối cùng đã gây ra sự sụp đổ của thị trường chứng khoán.


Bong bóng NYSE bùng nổ dữ dội vào ngày 24 tháng 10 năm 1929, ngày được gọi là Thứ Năm Đen Tối. Một đợt tăng giá ngắn đã xảy ra vào Thứ Sáu ngày 25 và trong phiên giao dịch kéo dài nửa ngày vào Thứ Bảy ngày 26 nhưng tuần tiếp theo đã mang đến Thứ Hai Đen tối (28 tháng 10) và Thứ Ba Đen tối (29 tháng 10).


DJIA đã giảm hơn 20% trong hai ngày đó. Thị trường chứng khoán cuối cùng sẽ giảm gần 90% so với mức đỉnh năm 1929.


Sóng từ vụ tai nạn lan rộng khắp Đại Tây Dương tới châu Âu, gây ra các cuộc khủng hoảng tài chính khác như sự sụp đổ của Boden-Kredit Anstalt, ngân hàng quan trọng nhất của Áo. Thảm họa kinh tế đã tấn công mạnh mẽ vào cả hai châu lục vào năm 1931.


Vòng xoáy kinh tế Mỹ


Sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1929 đã xóa sạch tài sản danh nghĩa , cả doanh nghiệp và tư nhân, và điều này khiến nền kinh tế Mỹ rơi vào tình trạng suy thoái. Tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ là 3,2% vào đầu năm 1929. Nó tăng vọt lên hơn 25% vào năm 1933.


Tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức trên 18,9% vào năm 1938 bất chấp sự can thiệp chưa từng có và chi tiêu chính phủ của cả chính quyền Hoover và Roosevelt. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thực bình quân đầu người thấp hơn mức năm 1929 vào thời điểm Nhật Bản ném bom Trân Châu Cảng vào cuối năm 1941.


Vụ tai nạn có thể đã gây ra cuộc suy thoái kinh tế kéo dài hàng thập kỷ nhưng hầu hết các nhà sử học và kinh tế đều đồng ý rằng bản thân nó không gây ra cuộc Đại suy thoái. Nó cũng không giải thích được tại sao độ sâu và sự kéo dài của cuộc suy thoái lại nghiêm trọng đến vậy. Một loạt các sự kiện và chính sách cụ thể đã góp phần gây ra cuộc Đại suy thoái và giúp kéo dài nó trong suốt những năm 1930.


Những sai lầm của Cục Dự trữ Liên bang non trẻ


Theo các nhà tiền tệ học như  Milton Friedman  và cựu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang  Ben Bernanke, Cục Dự trữ Liên bang tương đối mới  đã quản lý yếu kém việc cung cấp tiền và tín dụng trước và sau cuộc khủng hoảng năm 1929.


Fed được thành lập vào năm 1913 và gần như không hoạt động trong suốt 8 năm tồn tại đầu tiên. Sau đó, nó cho phép  mở rộng tiền tệ đáng kể sau khi nền kinh tế phục hồi từ cuộc suy thoái năm 1920 đến năm 1921.


Tổng cung tiền tăng thêm 28 tỷ USD, tăng 61,8% từ năm 1921 đến năm 1928.12Tiền gửi ngân hàng tăng 51,1%, cổ phiếu tiết kiệm và cho vay tăng 224,3%, dự trữ ròng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ tăng 113,8%. Tất cả điều này xảy ra sau khi Cục Dự trữ Liên bang cắt giảm dự trữ bắt buộc xuống 3% vào năm 1917. Lợi nhuận từ dự trữ vàng thông qua Kho bạc và Fed chỉ là 1,16 tỷ USD.


Fed đã thúc đẩy sự mở rộng nhanh chóng trước sự sụp đổ bằng cách tăng cung tiền và giữ lãi suất ở mức thấp trong suốt thập kỷ. Phần lớn sự tăng trưởng của nguồn cung tiền dư thừa đã thổi phồng thị trường chứng khoán và bong bóng bất động sản.


Fed đã đi theo hướng ngược lại bằng cách cắt giảm gần 1/3 nguồn cung tiền sau khi bong bóng vỡ và thị trường sụp đổ. Mức giảm này gây ra vấn đề nghiêm trọng về thanh khoản cho nhiều ngân hàng nhỏ và dập tắt hy vọng phục hồi nhanh chóng.


Các tuyến thương mại được tạo ra trong Thế chiến thứ hai vẫn được mở trong thời kỳ Đại suy thoái và giúp thị trường phục hồi.


Nắm đấm chặt chẽ của Fed


Như Bernanke đã lưu ý trong một bài phát biểu vào tháng 11 năm 2002, những cơn hoảng loạn trong ngân hàng thường được giải quyết trong vòng vài tuần trước khi Fed tồn tại. Các tổ chức tài chính tư nhân lớn sẽ cho các tổ chức nhỏ mạnh nhất vay tiền để duy trì tính toàn vẹn của hệ thống.10Kịch bản đó đã xảy ra hai thập kỷ trước trong Cuộc khủng hoảng năm 1907.


Chủ ngân hàng đầu tư JP Morgan đã vào cuộc để vận động người dân Phố Wall chuyển một lượng vốn đáng kể đến các ngân hàng đang thiếu vốn khi hoạt động bán tháo điên cuồng khiến NYSE lao dốc và dẫn đến tình trạng rút vốn ngân hàng. Trớ trêu thay, chính sự hoảng loạn đó đã khiến chính phủ thành lập Cục Dự trữ Liên bang để cắt giảm sự phụ thuộc vào các nhà tài trợ cá nhân như Morgan.


Người đứng đầu một số ngân hàng ở New York đã cố gắng tạo dựng niềm tin sau Thứ Năm Đen tối bằng cách mua mạnh khối lượng lớn cổ phiếu blue-chip với giá cao hơn giá thị trường.15Những hành động này đã gây ra một đợt phục hồi ngắn vào thứ Sáu nhưng đợt bán tháo hoảng loạn lại tiếp tục vào thứ Hai. Thị trường chứng khoán đã phát triển vượt quá khả năng của những nỗ lực cá nhân như vậy trong nhiều thập kỷ kể từ năm 1907. Chỉ có Fed là đủ lớn để hỗ trợ hệ thống tài chính Hoa Kỳ.


Fed đã không làm được điều đó khi bơm tiền mặt từ năm 1929 đến năm 1932. Thay vào đó, họ chứng kiến ​​nguồn cung tiền sụp đổ và khiến hàng nghìn ngân hàng phá sản. Điều này cùng với sự sụp đổ của lĩnh vực tài chính đã dẫn đến giảm phát và gây ra cuộc suy thoái sau đó. Luật ngân hàng vào thời điểm đó khiến các tổ chức gặp khó khăn trong việc phát triển và đa dạng hóa đủ để tồn tại trước tình trạng rút tiền gửi ồ ạt hoặc rút vốn ngân hàng.


Phản ứng gay gắt của Fed có thể là kết quả của việc lo ngại rằng việc giải cứu các ngân hàng bất cẩn sẽ khuyến khích sự vô trách nhiệm về tài chính trong tương lai. Một số nhà sử học cho rằng Fed đã tạo ra các điều kiện khiến nền kinh tế trở nên quá nóng và sau đó nó làm trầm trọng thêm tình hình kinh tế vốn đã tồi tệ.


Giá đề xuất của Hoover


Herbert Hoover thường được coi là một tổng thống "không làm gì cả" nhưng ông đã hành động sau khi vụ tai nạn xảy ra. Ông đã thực hiện ba thay đổi lớn từ năm 1930 đến năm 1932:


  • Chi tiêu liên bang tăng 42% khi tham gia vào các chương trình công trình công cộng lớn như Tập đoàn Tài chính Tái thiết (RFC)16

  • Thuế phải trả cho các chương trình mới

  • Lệnh cấm nhập cư vào năm 1930 để ngăn chặn những người lao động có tay nghề thấp tràn vào thị trường lao động


Hoover chủ yếu lo ngại rằng tiền lương sẽ bị cắt giảm sau thời kỳ kinh tế suy thoái. Ông lý luận rằng giá cả phải ở mức cao để đảm bảo mức lương cao trong tất cả các ngành. Người tiêu dùng sẽ phải trả nhiều tiền hơn để giữ giá ở mức cao.


Nhưng công chúng đã bị ảnh hưởng nặng nề trong vụ tai nạn, khiến nhiều người không có đủ nguồn lực để chi tiêu xa hoa cho hàng hóa và dịch vụ. Các công ty cũng không thể tin tưởng vào hoạt động thương mại ở nước ngoài vì các quốc gia nước ngoài không sẵn sàng mua hàng hóa Mỹ với giá quá cao so với người Mỹ.


Nhiều biện pháp can thiệp và hành động khác sau cuộc khủng hoảng của Hoover do Quốc hội thực hiện đã làm tổn hại đến khả năng điều chỉnh và tái phân bổ các nguồn lực của nền kinh tế, bao gồm tiền lương, lao động, thương mại và kiểm soát giá cả.


Chủ nghĩa bảo hộ của Mỹ


Thực tế ảm đạm này buộc Hoover phải sử dụng pháp luật để nâng giá và tiền lương bằng cách bóp nghẹt sự cạnh tranh nước ngoài rẻ hơn. Ông đã ký Đạo luật thuế quan Smoot-Hawley năm 1930 thành luật theo truyền thống của những người theo chủ nghĩa bảo hộ và chống lại sự phản đối của hơn một nghìn nhà kinh tế học trong nước.


Đạo luật này ban đầu nhằm mục đích bảo vệ nông nghiệp nhưng sau đó nó đã phát triển thành thuế quan đa ngành , áp đặt mức thuế khổng lồ đối với hơn 880 sản phẩm nước ngoài. Gần ba chục quốc gia trả đũa và nhập khẩu giảm từ 7 tỷ USD năm 1929 xuống chỉ còn 2,5 tỷ USD năm 1932. Thương mại quốc tế giảm 66% vào năm 1934. Không có gì ngạc nhiên khi điều kiện kinh tế trở nên tồi tệ trên toàn thế giới.


Mong muốn duy trì việc làm cũng như mức thu nhập cá nhân và doanh nghiệp của Hoover là điều dễ hiểu nhưng ông khuyến khích các doanh nghiệp tăng lương, tránh sa thải và giữ giá cao vào thời điểm lẽ ra lẽ ra chúng phải giảm. Hoa Kỳ đã phải chịu đựng tình trạng lương thấp và thất nghiệp từ một đến ba năm , bao gồm cả các chu kỳ suy thoái/suy thoái trước đó, trước khi giá cả giảm dẫn đến sự phục hồi.


Nền kinh tế Mỹ xấu đi từ suy thoái đến suy thoái khi không thể duy trì mức độ nhân tạo này khi thương mại toàn cầu bị cắt đứt một cách hiệu quả.



Theo Investopedia



Theo dõi tiếp các bài viết của chúng tôi tại www.finverse.vn





Comments


Chính sách

Cảnh báo rủi ro

  • TikTok
  • Facebook
  • YouTube
  • LinkedIn
  • Instagram

Cảnh báo:

Kết quả đầu tư trong quá khứ không ảnh hưởng đến kết quả trong tương lai. Các khoản đầu tư hoặc thu nhập từ đó có thể giảm hoặc tăng. Đôi khi bạn không thể lấy lại số tiền mình đã bỏ ra. Mọi ý kiến, tin tức, phân tích, giá cả hoặc thông tin khác trong thông báo của chúng tôi và trên trang web của chúng tôi, được trình bày dưới dạng bình luận chung về thị trường và không hàm nghĩa lời khuyên đầu tư, cũng không phải lời chào mời hoặc khuyến nghị mua, bán bất kỳ công cụ tài chính, sản phẩm hoặc dịch vụ tài chính nào khác.

© 2023 Finverse Global. Giữ bản quyền.

Hotline: 0866 23 20 23

bottom of page